Cảm ơn Chúa vì Chúa cho sau hai đêm truyền giảng có hơn 30 người tin Chúa. Quả thật Chúa đã thấy công khó của anh em chúng ta, và Ngài đã chúc phước lại cho chương trình của chúng ta.
Mặc dù vẫn tồn tại một vài điểm cần khắc phục, nhưng nhìn tổng quan thì chương trình của chúng ta đã thực hiện khá tốt. Mong rằng anh em chúng ta sẽ tiếp tục phát huy thế mạng này trong những ngày sắp tới.
Sau đây là một số hình ảnh đã chộp được trong đội kịch trước khi diển nè.hii...
Tuesday, December 25, 2007
Tuesday, December 18, 2007
Câu Chuyện Giáng Sinh - Giô Sép viết thư cho Mẹ
(Trích từ Tiếng Nói Phúc Âm)
Thưa mẹ,
Gia đình con vẫn còn ở Bết Lê Hem – Mary, con và bé Giê Xu.Có rất nhiều điều con không kể cho mẹ nghe được từ Mùa Hè vừa qua. Lúc đó chắc mẹ cũng không tin con được, nhưng có lẻ bây giờ con có thể kể cho mẹ nghe. Con mong mẹ sẽ thông cảm cho con.
Thưa mẹ, mẹ biết con yêu Mary như thế nào. Mẹ và Ba luôn nhạo con về nàng khi nàng còn là một cô bé. Mary các anh em nàng thường chơi giởn trên con đường nhà mình. Gia đình chúng ta và của nàng thường tụ hộp để ăn chung với nhau.
Nhưng ngày khó khăn nhất của đời con bắt đầu khoảng gần một năm trước khi con được hai mươi tuổi và Mary mới chỉ có mười lăm tuổi. Mẹ nhớ ngày đó phải không mẹ?
Khủng hoảng bắt đầu sau khi chúng con thề nguyện và hứa hôn với nhau. Mùa Xuân năm đó, Mary bất ngờ rời gia đình để thăm viếng Elizabeth, bà cô của Mary ở Judea. Mary xa nhà đến ba tháng.
Khi nàng về nhà, mọi ngưòi chung quanh thắc mắc và đồn đải có lẻ nàng bị mang thai. Sau cùng con phải hỏi thẳng Mary cho rõ sự thật về tin đồn đó. “ Mary, có phải em bị mang thai không ?” con hỏi.
Cặp mắt sáng màu nâu của nàng nhìn thẳng con và nàng gật đầu. Con không biết nói làm sao. “Do Ai?” Con quát cáo lên.Mẹ ơi, con và Mary không có gian giếu bậy bạ đâu – ngay cả sau khi chúng con thề nguyện đính hôn với nhau.Mary nhìn xuống đất rồi nàng nói, “Anh Giô Sép, em không có cách nào giải thích cho anh hiểu được. Anh không thể hiểu được việc gì đã xẩy ra cho em. Nhưng em chỉ muốn nói cho anh biết rằng em không có yêu ai khác hay để ý đến ai ngoài anh.” Rồi nàng đứng dậy, cầm lấy bàn tay con, nâng niu và hôn bàn tay con như thê là nàng làm được lần cuối và sẽ không còn được nâng niu nữa, rồi nàng chạy nhanh về nhà. Con biết trong lòng nàng, nàng thật đau khổ và rối toan. Chính con cũng thật đau khổ và băn khoăn.Cả ngày hôm đó, con lẩn quẫn mà không làm nên chuyện gì hết. May là con không gây cho con tai nạn nào trong kho thợ mộc của con. Mới đầu con thật tức giận đến nỗi con trút cơn giận vào cánh cửa con đang làm. Ý tưởng của con quay cuồng cuộn, con không thể tập trung ý nghĩ vào công việc của con. Cuối cùng con toan đi đến việc dứt khoát một cách êm dịu cuộc đính hôn với Mary. Con yêu Mary quá đỗi nên không muốn làm rùm ben chuyện lên. Lúc đó con không thể than vản với mẹ, hay bất cứ ai về chuyện đó. Con cố gắng đi ngũ sớm để quên đi những chuyện đã xẩy ra, nhưng những lời nói của Mary vẫn lẩn quẫn trong tâm trí con. “Em không có yêu ai khác..ngoài anh… Em không có yêu ai khác..ngoài anh…” Phải chi con có thể tin Mary được lúc đó.Con không biết khi nào thì con ngủ thiếp đi. Mẹ ơi, đêm đó con có một chiêm bao từ Chúa. Một thiên sứ của Chúa đến với con. Những lời của thiên sứ đập manh vào đầu óc con, cho con một ẩn tượng một cách mảnh liệt mà con tưởng chừng mọi việc vừa mới xẩy ra hôm qua. “Giô Sép, con cháu David,” thiên sứ nói một cách rổn rảng, “ngươi chớ ngại lấy Mary làm vợ, vì người chịu thai là bởi Thánh Linh.”Mẹ ơi, con khó thể tưởng tượng được những gì con mới vừa nghe từ vị Thiên Sứ. Đó là câu giải đáp cho mọi vấn đề phức tạp về chuyện Mary! Thiên Sứ nói tiếp, “Nàng sẽ sanh một trai, và ngươi khá đặt tên là Giê Xu, vì Người sẽ cứu dân mình khỏi tội.”Vị thiên sứ nắm chặt lấy vai con với đôi bàn tay to lớn của ông. Rồi qua một hồi khá lâu, thiên sứ nhìn con chầm chầm. Khi thiên sứ vừa sắp sửa rời khỏi con, hình như con thấy thiên sứ nở một nụ cười trên khuôn mặt sáng ngời của thiên sứ. Con ngồi thẳng ngay dậy trên gường của con. Con không tài nào ngủ lại được, đầu óc cứ ngẫm nghĩ những điều thiên sứ nói. Sau đó, con vội đứng dậy, mặc quần áo một cách yên lặng để con không đánh thức mẹ dậy. Có lẻ đêm đó con cuốc bộ hàng dặm đường dưới bầu trời không trăng. Hàng ngàn hàng vạn ngôi sao lóm chóm những tia sáng yếu ớt đó đây giữa bầu trời tối đen. Một luồng gió ấm thổi vào mặt con. Mẹ có thể tin không, con hát ngợi khen Chúa. Vâng, con hát sướng đêm đó đó mẹ. Con không thể ngăn chận nỗi vui mừng trong lòng con. Con nói với Chúa con sẽ lấy Mary làm vợ và săn sóc nàng. Con nói với Chúa con sẽ trông nôm Mary và Con trẻ -- mặt kệ ai nghĩ gì thì nghĩ.Con bắt đầu về nhà khi mặt trời vừa mọc trên đỉnh đồi. Con không rõ mẹ con nhớ buổi sáng hôm ấy hay không? Con vẫn còn hình dung tâm trạng của con sáng hôm ấy như là mới ngày hôm qua. Mẹ đang cho đàn gà ăn sáng, và ngạc nhiên thấy con đi đâu mới về. Mẹ nhớ không?“Mẹ ngồi xuống đây,” Con nói với mẹ. “Con phải kể cho mẹ nghe vài điều.” Con cầm tay mẹ và giúp mẹ ngồi xuống một tản đá to tướng đằng sau nhà. “Mẹ,” Con nói, “Con sẽ đem Mary về nhà làm vợ của con. Mẹ có thể dọn dẹp một chỗ cho đồ đạc của nàng không?” Mẹ ngồi yên không nói năng gì. Một hồi lâu, mắt mẹ sáng long lanh, mẹ lên tiếng “Con không nghe người ta đàm tiếu về Mary sao hả con?” “Dạ, thưa Mẹ, con biết.”Rồi mẹ bắt đầu to tiếng hơn. “Ba mầy mà con sống, ổng sẽ mắng mày cho một trận. Làm cho người ta có chửa, trước khi lấy nhau. Thật phỉ mặt cả gia đình, làm bôi xấu cả dòng họ. Mày..mày và con Mary phải xấu hổ đi chứ!”Mẹ không thể nào tin con được dầu con có cố gắng giải thích đến đâu đi nữa, cho nên lúc đó con làm thinh Ngoại trừ khi thiên sứ báo tin cho mẹ, còn không mẹ chỉ cười khinh miệt con thêm mà thôi.“Mẹ ơi, con nghĩ đây là việc con phải làm,” Con nói.Rồi con bắt đầu nói với mẹ như con là chủ nhà. “Khi nàng đến đây con không muốn nghe một tiếng xì xào về nàng,” Con lắp bắp nói. “Nàng là dâu của mẹ, mẹ cần phải thương yêu nàng. Nàng cần sự giúp đở che chở của mẹ vì nàng còn phải chịu đựng miệng lưởi của hàng xóm!”Con xin lỗi vì mẹ phải trải qua cơn khủng hoảng này. Rồi mẹ đứng lên một cách giận dữ.“Mẹ,” Con lẫm bẩm, “Con cần sự giúp đở của mẹ.” Mẹ cầm tay con và cuối xuống, và ánh mắt mẹ cho thấy cơn giận đã nguôi đi.“Giô Sép, con có thể tin tưởng nơi mẹ,” mẹ vừa bảo con và ôm chầm lấy con một cách âu yếm. Và mẹ đã chứng tỏ điều đó. Con không bao giờ nghe mẹ phàn nàn hay trách móc gì về Mary. Không một con dâu nào không mong có một bà mẹ chồng tốt như mẹ, nhất là những ngày tháng sau đó. Mẹ, sau khi con tạm chia tay với mẹ lúc đó, con đi thẳng đến nhà Mary và gỏ cửa. Mẹ của Mary nhìn con trừng trừng khi bà ra mở cửa. Bà gọi vọng vào nhà trong một cách sằn giọng., “Giô Sép đó bây ơi” bà gằn giọng lên một cách khinh bỉ khi nói đến tên con.Mary đi ra gặp con với dáng dẻ rụt rè sợ sệt, con cứ tưỏng dường như nàng mong con dang bàn tay con cho nàng một lần nữa. Đôi mắt nàng đỏ hoe và sưng phù lên. Con có thể tưỏng tượng cha mẹ nàng đã mắng nhiếc nàng như thế nào.Từ nhà nàng, chúng con đi rảo một chút xíu. Nàng có vẻ ngây thơ và run sợ. Con nói với Mary một cách nhỏ nhẹ “Mary, Hãy cuốn gói đi về nhà anh. Anh sẽ lấy em làm vợ."Mary thốt to lên “Anh Giô Sép!” Rồi nàng ôm chầm lấy con một cách nồng nàn, thật chật. Mẹ ơi, con không ngờ cô nàng mạnh đến thế.Con nói cho nàng nghe dự định của con. “Chúng ta sẽ đến gặp Rabbi Ben-Ezer tuần này và nhờ ộng làm lễ cưới.”Thưa Mẹ, Con biết mọi sự xảy ra quá đột ngột, nhưng con nhận thấy càng sớm chừng nào chúng con lấy nhau., càng tốt đẹp cho nàng, cho con và cho con trẻ.Con xác nhận với Mary, “Dầu bạn bè quyến thuộc không đến dự lễ cưới của chúng ta, ít nhất mình cũng hứa nguyện trưóc mặt Chúa.” “Anh nghĩ mẹ anh sẽ đến tham dự. Và có lẽ cô Rebecca, bạn thân của em, cũng đến nữa nếu cha cô ta cho phép cô ta. Còn ba má em thì sao?” Con cảm thấy thân hình nhỏ bé của Mary run lên khi nàng sụt sùi khóc.Con nói với Mary với giọng khẳng định hơn. “Dầu ai có nói gì đi nữa, anh vẫn hãnh diện vì em sẽ là vợ anh. Anh sẽ săn sóc lo lắng cho em. Anh đã hứa nguyện với Chúa điều đó.”Nàng nhìn thẳng vào con.Con nhỏ nhẹ nói với Mary. “Anh có một giấc chiêm bao tối hôm qua. Anh gặp một thiên sứ. Anh đã biết hết mọi việc.”Nỗi ưu tư trên gương mặt của nàng chợt biến mất. Nàng bỗng trở nên hớn hở khi chúng con đi xa nhà hơn và cùng nhau đi lên trên đồi.Vừa ngay lúc đó, mẹ nàng chạy vội ra ngoài sân trước nhà, gọi lớn lên, “hai đứa, hãy chờ cái đã”. Bà ta chắc nghe hết mọi chuyện của chúng con từ phía trong nhà. Nước mắt bà tuông trào ra hai bên má.“Để má gọi ba tụi bây cái đã.” giọng nói của bà tràn đầy xúc động, “Chúng ta..” bà vừa la to vừa xuắn lên bộ đồ đang mặt của bà. “Chúng ta..” bà vừa nói vừa gọi chồng bà ta. “Chúng ta …sẽ tổ chức một đám cưới cho các con!”Câu chuyện là như vây đó mẹ. Con cám ơn mẹ đã nâng đở tụi con khi có cần. Hẹn sẽ viết thư thêm cho mẹ. Con của mẹ, Giô Sép
Thưa mẹ, mẹ biết con yêu Mary như thế nào. Mẹ và Ba luôn nhạo con về nàng khi nàng còn là một cô bé. Mary các anh em nàng thường chơi giởn trên con đường nhà mình. Gia đình chúng ta và của nàng thường tụ hộp để ăn chung với nhau.
Nhưng ngày khó khăn nhất của đời con bắt đầu khoảng gần một năm trước khi con được hai mươi tuổi và Mary mới chỉ có mười lăm tuổi. Mẹ nhớ ngày đó phải không mẹ?
Khủng hoảng bắt đầu sau khi chúng con thề nguyện và hứa hôn với nhau. Mùa Xuân năm đó, Mary bất ngờ rời gia đình để thăm viếng Elizabeth, bà cô của Mary ở Judea. Mary xa nhà đến ba tháng.
Khi nàng về nhà, mọi ngưòi chung quanh thắc mắc và đồn đải có lẻ nàng bị mang thai. Sau cùng con phải hỏi thẳng Mary cho rõ sự thật về tin đồn đó. “ Mary, có phải em bị mang thai không ?” con hỏi.
Cặp mắt sáng màu nâu của nàng nhìn thẳng con và nàng gật đầu. Con không biết nói làm sao. “Do Ai?” Con quát cáo lên.Mẹ ơi, con và Mary không có gian giếu bậy bạ đâu – ngay cả sau khi chúng con thề nguyện đính hôn với nhau.Mary nhìn xuống đất rồi nàng nói, “Anh Giô Sép, em không có cách nào giải thích cho anh hiểu được. Anh không thể hiểu được việc gì đã xẩy ra cho em. Nhưng em chỉ muốn nói cho anh biết rằng em không có yêu ai khác hay để ý đến ai ngoài anh.” Rồi nàng đứng dậy, cầm lấy bàn tay con, nâng niu và hôn bàn tay con như thê là nàng làm được lần cuối và sẽ không còn được nâng niu nữa, rồi nàng chạy nhanh về nhà. Con biết trong lòng nàng, nàng thật đau khổ và rối toan. Chính con cũng thật đau khổ và băn khoăn.Cả ngày hôm đó, con lẩn quẫn mà không làm nên chuyện gì hết. May là con không gây cho con tai nạn nào trong kho thợ mộc của con. Mới đầu con thật tức giận đến nỗi con trút cơn giận vào cánh cửa con đang làm. Ý tưởng của con quay cuồng cuộn, con không thể tập trung ý nghĩ vào công việc của con. Cuối cùng con toan đi đến việc dứt khoát một cách êm dịu cuộc đính hôn với Mary. Con yêu Mary quá đỗi nên không muốn làm rùm ben chuyện lên. Lúc đó con không thể than vản với mẹ, hay bất cứ ai về chuyện đó. Con cố gắng đi ngũ sớm để quên đi những chuyện đã xẩy ra, nhưng những lời nói của Mary vẫn lẩn quẫn trong tâm trí con. “Em không có yêu ai khác..ngoài anh… Em không có yêu ai khác..ngoài anh…” Phải chi con có thể tin Mary được lúc đó.Con không biết khi nào thì con ngủ thiếp đi. Mẹ ơi, đêm đó con có một chiêm bao từ Chúa. Một thiên sứ của Chúa đến với con. Những lời của thiên sứ đập manh vào đầu óc con, cho con một ẩn tượng một cách mảnh liệt mà con tưởng chừng mọi việc vừa mới xẩy ra hôm qua. “Giô Sép, con cháu David,” thiên sứ nói một cách rổn rảng, “ngươi chớ ngại lấy Mary làm vợ, vì người chịu thai là bởi Thánh Linh.”Mẹ ơi, con khó thể tưởng tượng được những gì con mới vừa nghe từ vị Thiên Sứ. Đó là câu giải đáp cho mọi vấn đề phức tạp về chuyện Mary! Thiên Sứ nói tiếp, “Nàng sẽ sanh một trai, và ngươi khá đặt tên là Giê Xu, vì Người sẽ cứu dân mình khỏi tội.”Vị thiên sứ nắm chặt lấy vai con với đôi bàn tay to lớn của ông. Rồi qua một hồi khá lâu, thiên sứ nhìn con chầm chầm. Khi thiên sứ vừa sắp sửa rời khỏi con, hình như con thấy thiên sứ nở một nụ cười trên khuôn mặt sáng ngời của thiên sứ. Con ngồi thẳng ngay dậy trên gường của con. Con không tài nào ngủ lại được, đầu óc cứ ngẫm nghĩ những điều thiên sứ nói. Sau đó, con vội đứng dậy, mặc quần áo một cách yên lặng để con không đánh thức mẹ dậy. Có lẻ đêm đó con cuốc bộ hàng dặm đường dưới bầu trời không trăng. Hàng ngàn hàng vạn ngôi sao lóm chóm những tia sáng yếu ớt đó đây giữa bầu trời tối đen. Một luồng gió ấm thổi vào mặt con. Mẹ có thể tin không, con hát ngợi khen Chúa. Vâng, con hát sướng đêm đó đó mẹ. Con không thể ngăn chận nỗi vui mừng trong lòng con. Con nói với Chúa con sẽ lấy Mary làm vợ và săn sóc nàng. Con nói với Chúa con sẽ trông nôm Mary và Con trẻ -- mặt kệ ai nghĩ gì thì nghĩ.Con bắt đầu về nhà khi mặt trời vừa mọc trên đỉnh đồi. Con không rõ mẹ con nhớ buổi sáng hôm ấy hay không? Con vẫn còn hình dung tâm trạng của con sáng hôm ấy như là mới ngày hôm qua. Mẹ đang cho đàn gà ăn sáng, và ngạc nhiên thấy con đi đâu mới về. Mẹ nhớ không?“Mẹ ngồi xuống đây,” Con nói với mẹ. “Con phải kể cho mẹ nghe vài điều.” Con cầm tay mẹ và giúp mẹ ngồi xuống một tản đá to tướng đằng sau nhà. “Mẹ,” Con nói, “Con sẽ đem Mary về nhà làm vợ của con. Mẹ có thể dọn dẹp một chỗ cho đồ đạc của nàng không?” Mẹ ngồi yên không nói năng gì. Một hồi lâu, mắt mẹ sáng long lanh, mẹ lên tiếng “Con không nghe người ta đàm tiếu về Mary sao hả con?” “Dạ, thưa Mẹ, con biết.”Rồi mẹ bắt đầu to tiếng hơn. “Ba mầy mà con sống, ổng sẽ mắng mày cho một trận. Làm cho người ta có chửa, trước khi lấy nhau. Thật phỉ mặt cả gia đình, làm bôi xấu cả dòng họ. Mày..mày và con Mary phải xấu hổ đi chứ!”Mẹ không thể nào tin con được dầu con có cố gắng giải thích đến đâu đi nữa, cho nên lúc đó con làm thinh Ngoại trừ khi thiên sứ báo tin cho mẹ, còn không mẹ chỉ cười khinh miệt con thêm mà thôi.“Mẹ ơi, con nghĩ đây là việc con phải làm,” Con nói.Rồi con bắt đầu nói với mẹ như con là chủ nhà. “Khi nàng đến đây con không muốn nghe một tiếng xì xào về nàng,” Con lắp bắp nói. “Nàng là dâu của mẹ, mẹ cần phải thương yêu nàng. Nàng cần sự giúp đở che chở của mẹ vì nàng còn phải chịu đựng miệng lưởi của hàng xóm!”Con xin lỗi vì mẹ phải trải qua cơn khủng hoảng này. Rồi mẹ đứng lên một cách giận dữ.“Mẹ,” Con lẫm bẩm, “Con cần sự giúp đở của mẹ.” Mẹ cầm tay con và cuối xuống, và ánh mắt mẹ cho thấy cơn giận đã nguôi đi.“Giô Sép, con có thể tin tưởng nơi mẹ,” mẹ vừa bảo con và ôm chầm lấy con một cách âu yếm. Và mẹ đã chứng tỏ điều đó. Con không bao giờ nghe mẹ phàn nàn hay trách móc gì về Mary. Không một con dâu nào không mong có một bà mẹ chồng tốt như mẹ, nhất là những ngày tháng sau đó. Mẹ, sau khi con tạm chia tay với mẹ lúc đó, con đi thẳng đến nhà Mary và gỏ cửa. Mẹ của Mary nhìn con trừng trừng khi bà ra mở cửa. Bà gọi vọng vào nhà trong một cách sằn giọng., “Giô Sép đó bây ơi” bà gằn giọng lên một cách khinh bỉ khi nói đến tên con.Mary đi ra gặp con với dáng dẻ rụt rè sợ sệt, con cứ tưỏng dường như nàng mong con dang bàn tay con cho nàng một lần nữa. Đôi mắt nàng đỏ hoe và sưng phù lên. Con có thể tưỏng tượng cha mẹ nàng đã mắng nhiếc nàng như thế nào.Từ nhà nàng, chúng con đi rảo một chút xíu. Nàng có vẻ ngây thơ và run sợ. Con nói với Mary một cách nhỏ nhẹ “Mary, Hãy cuốn gói đi về nhà anh. Anh sẽ lấy em làm vợ."Mary thốt to lên “Anh Giô Sép!” Rồi nàng ôm chầm lấy con một cách nồng nàn, thật chật. Mẹ ơi, con không ngờ cô nàng mạnh đến thế.Con nói cho nàng nghe dự định của con. “Chúng ta sẽ đến gặp Rabbi Ben-Ezer tuần này và nhờ ộng làm lễ cưới.”Thưa Mẹ, Con biết mọi sự xảy ra quá đột ngột, nhưng con nhận thấy càng sớm chừng nào chúng con lấy nhau., càng tốt đẹp cho nàng, cho con và cho con trẻ.Con xác nhận với Mary, “Dầu bạn bè quyến thuộc không đến dự lễ cưới của chúng ta, ít nhất mình cũng hứa nguyện trưóc mặt Chúa.” “Anh nghĩ mẹ anh sẽ đến tham dự. Và có lẽ cô Rebecca, bạn thân của em, cũng đến nữa nếu cha cô ta cho phép cô ta. Còn ba má em thì sao?” Con cảm thấy thân hình nhỏ bé của Mary run lên khi nàng sụt sùi khóc.Con nói với Mary với giọng khẳng định hơn. “Dầu ai có nói gì đi nữa, anh vẫn hãnh diện vì em sẽ là vợ anh. Anh sẽ săn sóc lo lắng cho em. Anh đã hứa nguyện với Chúa điều đó.”Nàng nhìn thẳng vào con.Con nhỏ nhẹ nói với Mary. “Anh có một giấc chiêm bao tối hôm qua. Anh gặp một thiên sứ. Anh đã biết hết mọi việc.”Nỗi ưu tư trên gương mặt của nàng chợt biến mất. Nàng bỗng trở nên hớn hở khi chúng con đi xa nhà hơn và cùng nhau đi lên trên đồi.Vừa ngay lúc đó, mẹ nàng chạy vội ra ngoài sân trước nhà, gọi lớn lên, “hai đứa, hãy chờ cái đã”. Bà ta chắc nghe hết mọi chuyện của chúng con từ phía trong nhà. Nước mắt bà tuông trào ra hai bên má.“Để má gọi ba tụi bây cái đã.” giọng nói của bà tràn đầy xúc động, “Chúng ta..” bà vừa la to vừa xuắn lên bộ đồ đang mặt của bà. “Chúng ta..” bà vừa nói vừa gọi chồng bà ta. “Chúng ta …sẽ tổ chức một đám cưới cho các con!”Câu chuyện là như vây đó mẹ. Con cám ơn mẹ đã nâng đở tụi con khi có cần. Hẹn sẽ viết thư thêm cho mẹ. Con của mẹ, Giô Sép
Chiếc Xe Kéo Màu Đỏ
(Trích từ Tiếng Nói Phúc Âm)
Thành thật mà nói tháng đầu tiên rất vui. Khi tôi di chuyển 3 đứa con của tôi,Jeanne 6 tuổi,Julia 4 tuổi và Michael 3 tuổi về thành phố Illinois mà tôi sinh trưởng ở miền bắc Illinois vào ngày mà tôi ly dị với chồng tôi, tôi rất sung sướng vì được ở một nơi mà không có sự đánh đập hay hành hạ.
Nhưng tháng đầu tiên trôi qua rất mau, và tôi bắt đầu nhớ những người bạn cũ và những người láng giềng cũ. Tôi nhớ căn nhà bằng gạch đẹp đẽ và tiện nghi của chúng tôi ở vùng ngoại ô St. Louis,nhất là sau khi chúng tôi dọn đến ở trong căn nhà gỗ màu trắng cũ kỹ này.
Ở St. Louis, chúng tôi có đủ mọi thứ tiện nghi, có máy giặt,máy sấy, máy rửa chén, T.V và xe hơi. Bây giờ chúng tôi chẳng có thứ gì cả. Dường như là chúng tôi đã đi từ sự tiện nghi của giai cấp trung lưu đến sự sợ hãi của cảnh nghèo khó.
Căn phòng ngũ trong căn nhà cũ kỹ của chúng tôi không có lò sưởi, nhưng những đứa trẻ không chú ý đến điều đó. Sàn nhà bằng gạch,lạnh cho những bàn chân bé nhỏ của chúng chỉ khiến chúng thay quần áo thật nhanh vào buổi sáng và leo lên giường nhanh hơn vào buổi tối.
Cơn gió lạnh của tháng 12 lùa qua mọi cửa sổ và cửa lớn của căn nhà cũ kỹ đó. Nhưng lũ trẻ chỉ cười đùa vì không khí lạnh trong các phòng và chúng chui ngay vào dưới những tấm nệm ấm, dày mà dì Bermadine mang đến hôm chúng tôi dọn tới.
Tôi thật điên đầu vì không có T.V. Chúng tôi sẽ làm gì buổi tối đây nếu không được xem những chương trình mà chúng tôi yêu thích nhưng lũ trẻ thì lại lạc quan và có nhiều sáng kiến hơn tôi. Chúng lôi những trò chơi games của chúng ra và năn nỉ tôi chơi Candyland hay Old Maid với chúng.
Chúng tôi ngồi xúm lại trên chiếc sofa màu xám cũ kỹ và đọc những cuốn sách mượn từ thư viện. Chúng tôi nghe những dĩa nhạc, hát và chơi trò đi trốn trong căn nhà cũ kỹ của chúng tôi. Lũ trẻ dạy tôi làm cách nào có được sự vui đùa mà không cần đến T.V.
Vào một buổi tối tháng 12 lạnh giá, một tuần trước lễ Giáng Sinh. Sau khi đi bô 2 dặm về nhà từ một chỗ làm tạm của tôi ở một cửa tiệm, tôi chợt nhớ ra là tối hôm đó cần mang quần áo đi giặt.. Tôi thật là mệt mỏi khi phải sắp xếp và soạn những món quà Giáng Sinh,và cũng hơi cay đắng nữa,vì biết rằng tôi sẽ không có đủ tiền để mua quà cho các con tôi.
Ngay sau khi đến đón các con tôi ở nhà người giữ trẻ, tôi chất 4 giỏ đầy quần áo bẩn vào chiếc xe kéo màu đỏ của mấy đứa nhỏ, và cả 4 chúng tôi đi đến tiệm giặt cách nhà độ 3 dãy phố.
Ở tiệm giặt chúng tôi phải đợi mới có máy giặt trống và có bàn để gấp quần áo. Do đó việc soạn quần áo,giặt sấy và gấp mất nhiều thì giờ hơn.
Jeanne hỏi:”Mẹ có mang theo nho khô hay bánh không?“Không”, tôi trả lời một cách bực dọc.”Chúng ta sẽ ăn tốI ngay sau khi về đến nhà”.
Michael thì dán mũi sát vào cánh cửa sổ bằng kính. “Mẹ ơi, nhìn kìa, tuyết đang rơi,có những bông tuyết thật lớn!”. Sự háo hức của chúng chỉ làm tôi thêm bực bội. Cái giá lạnh chưa đủ, bây giờ lại thêm tuyết và bùn nữa,tôi chưa kịp lấy giày botte và găng tay của chúng ra khỏi thùng.
Cuối cùng quần áo sạch, gấp cẩn thận được xếp vào giỏ và chất đầy 2 giỏ để trên xe kéo. Ồ, đã 6:30 giờ rồi sao? Chẳng trách là lũ trẻ đã thấy đói bụng. Thường ngày chúng tôi ăn tốI lúc 5:00 giờ.
Chúng tôi đi dò dẫm trong cái lạnh của buổi tối mùa đông và trợt chân trên những vĩa hè trơn bẫn. 3 đứa nhỏ, một bà mẹ cáu kỉnh, và 4 cái giỏ quần áo sạch để trên cái xe kéo đỏ di chuyển thật chậm chạp vì gió lạnh tạt vào mặt chúng tôi. Chúng tôi băng qua ngã tư đông người. Khi chúng tôi đến vỉa hè, 2 bánh xe trước của chiếc xe kéo trượt trên mặt đường đông đá, và chiếc xe đỗ về một bên, khiến giỏ quần áo bị đỗ vào vũng nước đen bẫn.Ôi chao! Tôi la lên:” Jeanne. Nắm lấy cái giỏ quần áo! Julia, giữ cái xe kéo lại. Michael, đừng chạy xuống đường".”.
Tôi nhồi mớ quần áo ướt và bẩn vào giỏ lại. Tôi la lên:” Thật là bực quá rồi”. Những giọt nước tuôn tràn trên mặt tôi.Tôi bực dọc vì mình nghèo,không có xe hơi, và không có máy giặt hay máy xấy.Tôi bực bội vì thời tiết. Tôi bực vì chỉ có mình và phải lo cho 3 đứa trẻ. Tôi bực và chán ghét cả mùa Giáng Sinh.
Khi về đến nhà, tôi đi ngay về phòng ngũ của mình để khóc cho đã. Tôi khóc lớn đủ để cho lũ trẻ nghe tiếng. Một cách ích kỹ,tôi muốn chúng biết là tôi khổ đến chừng nào. Quần áo vẫn còn dơ, chúng tôi thật mệt mỏi, chưa chuẩn bị cho bữa ăn tối, và không có gì đảm bảo tương lai sẽ sáng sủa hơn.
Khi tôi cạn nước mắt, tôi nhìn vào tấm bảng gỗ hình Chúa Jesus treo trên tường. Tôi nhận được tấm bảng đó từ khi tôi còn bé và tôi mang theo tấm bảng này đến mỗi căn nhà mà tôi dọn đến. Tấm bảng vẽ hình Chúa Jesus giang tay ra trên qủa địa cầu, rõ ràng là Ngài giải quyết biết những nan đề của thế giới.
Tôi nhìn chăm chăm vào ảnh Chúa Jesus, trông đợi một phép lạ. Cuối cùng tôi nói:”Lạy Chúa, Ngài có thể làm điều gì để cho cuộc đời con khá hơn được không?” Tôi thật mong muốn có một thiên sứ ngự xuống từ một đám mây và giải cứu tôi.
Nhưng không có ai đến cả, chỉ có Julia thò đầu vào phòng tôi và nói với giọng nói ngây thơ của một đứa trẻ 4 tuổi là nó đã bày bản xongg cho bữa ăn tối.Tôi có thể nghe tiếng của đứa con 6 tuổi, Jeanne, ở trong phòng khách đang soạn quần áo thành 2 đống,” đồ thật bẩn, không bẩn, đồ thật bẩn, đồ không bẩn”.
Michael chạy vào phòng tôi và cho tôi tấm hình vẽ nó mới tô mầu.Vào lúc đó, tôi thật thấy thiên sứ,không phải chỉ một mà 3 thiên sứ, 3 thiên thần bé nhỏ lúc nào cũng lạc quan,và một lần nữa lại kéo tôi ra khỏi sự đau buồn để mà vào thế giới mà “mọi sự sẽ tốt đẹp hơn vào ngày mai, mẹ à”.
Giáng sinh năm đó thật là mầu nhiệm khi chúng tôi được bao phủ bởi tình yêu, dựa trên niềm vui có được từ việc làm những việc làm đơn giản chung với nhau.
Có một điều tôi biết chắc:”việc dạy dổ con cái đối với tôi không bao giờ là điều đáng sợ, hay gây khủng hoảng cho tôi như là vào cái đêm mà đống quần áo rơi ra khỏi cái xe kéo đỏ”. 3 thiên thần bé nhỏ đã khiến tinh thần tôi được vui vẻ vào ngày nay, 30 năm sau, chúng luôn luôn khiến lòng tôi tràn ngập sự hiện diện của Chúa.
Nhưng tháng đầu tiên trôi qua rất mau, và tôi bắt đầu nhớ những người bạn cũ và những người láng giềng cũ. Tôi nhớ căn nhà bằng gạch đẹp đẽ và tiện nghi của chúng tôi ở vùng ngoại ô St. Louis,nhất là sau khi chúng tôi dọn đến ở trong căn nhà gỗ màu trắng cũ kỹ này.
Ở St. Louis, chúng tôi có đủ mọi thứ tiện nghi, có máy giặt,máy sấy, máy rửa chén, T.V và xe hơi. Bây giờ chúng tôi chẳng có thứ gì cả. Dường như là chúng tôi đã đi từ sự tiện nghi của giai cấp trung lưu đến sự sợ hãi của cảnh nghèo khó.
Căn phòng ngũ trong căn nhà cũ kỹ của chúng tôi không có lò sưởi, nhưng những đứa trẻ không chú ý đến điều đó. Sàn nhà bằng gạch,lạnh cho những bàn chân bé nhỏ của chúng chỉ khiến chúng thay quần áo thật nhanh vào buổi sáng và leo lên giường nhanh hơn vào buổi tối.
Cơn gió lạnh của tháng 12 lùa qua mọi cửa sổ và cửa lớn của căn nhà cũ kỹ đó. Nhưng lũ trẻ chỉ cười đùa vì không khí lạnh trong các phòng và chúng chui ngay vào dưới những tấm nệm ấm, dày mà dì Bermadine mang đến hôm chúng tôi dọn tới.
Tôi thật điên đầu vì không có T.V. Chúng tôi sẽ làm gì buổi tối đây nếu không được xem những chương trình mà chúng tôi yêu thích nhưng lũ trẻ thì lại lạc quan và có nhiều sáng kiến hơn tôi. Chúng lôi những trò chơi games của chúng ra và năn nỉ tôi chơi Candyland hay Old Maid với chúng.
Chúng tôi ngồi xúm lại trên chiếc sofa màu xám cũ kỹ và đọc những cuốn sách mượn từ thư viện. Chúng tôi nghe những dĩa nhạc, hát và chơi trò đi trốn trong căn nhà cũ kỹ của chúng tôi. Lũ trẻ dạy tôi làm cách nào có được sự vui đùa mà không cần đến T.V.
Vào một buổi tối tháng 12 lạnh giá, một tuần trước lễ Giáng Sinh. Sau khi đi bô 2 dặm về nhà từ một chỗ làm tạm của tôi ở một cửa tiệm, tôi chợt nhớ ra là tối hôm đó cần mang quần áo đi giặt.. Tôi thật là mệt mỏi khi phải sắp xếp và soạn những món quà Giáng Sinh,và cũng hơi cay đắng nữa,vì biết rằng tôi sẽ không có đủ tiền để mua quà cho các con tôi.
Ngay sau khi đến đón các con tôi ở nhà người giữ trẻ, tôi chất 4 giỏ đầy quần áo bẩn vào chiếc xe kéo màu đỏ của mấy đứa nhỏ, và cả 4 chúng tôi đi đến tiệm giặt cách nhà độ 3 dãy phố.
Ở tiệm giặt chúng tôi phải đợi mới có máy giặt trống và có bàn để gấp quần áo. Do đó việc soạn quần áo,giặt sấy và gấp mất nhiều thì giờ hơn.
Jeanne hỏi:”Mẹ có mang theo nho khô hay bánh không?“Không”, tôi trả lời một cách bực dọc.”Chúng ta sẽ ăn tốI ngay sau khi về đến nhà”.
Michael thì dán mũi sát vào cánh cửa sổ bằng kính. “Mẹ ơi, nhìn kìa, tuyết đang rơi,có những bông tuyết thật lớn!”. Sự háo hức của chúng chỉ làm tôi thêm bực bội. Cái giá lạnh chưa đủ, bây giờ lại thêm tuyết và bùn nữa,tôi chưa kịp lấy giày botte và găng tay của chúng ra khỏi thùng.
Cuối cùng quần áo sạch, gấp cẩn thận được xếp vào giỏ và chất đầy 2 giỏ để trên xe kéo. Ồ, đã 6:30 giờ rồi sao? Chẳng trách là lũ trẻ đã thấy đói bụng. Thường ngày chúng tôi ăn tốI lúc 5:00 giờ.
Chúng tôi đi dò dẫm trong cái lạnh của buổi tối mùa đông và trợt chân trên những vĩa hè trơn bẫn. 3 đứa nhỏ, một bà mẹ cáu kỉnh, và 4 cái giỏ quần áo sạch để trên cái xe kéo đỏ di chuyển thật chậm chạp vì gió lạnh tạt vào mặt chúng tôi. Chúng tôi băng qua ngã tư đông người. Khi chúng tôi đến vỉa hè, 2 bánh xe trước của chiếc xe kéo trượt trên mặt đường đông đá, và chiếc xe đỗ về một bên, khiến giỏ quần áo bị đỗ vào vũng nước đen bẫn.Ôi chao! Tôi la lên:” Jeanne. Nắm lấy cái giỏ quần áo! Julia, giữ cái xe kéo lại. Michael, đừng chạy xuống đường".”.
Tôi nhồi mớ quần áo ướt và bẩn vào giỏ lại. Tôi la lên:” Thật là bực quá rồi”. Những giọt nước tuôn tràn trên mặt tôi.Tôi bực dọc vì mình nghèo,không có xe hơi, và không có máy giặt hay máy xấy.Tôi bực bội vì thời tiết. Tôi bực vì chỉ có mình và phải lo cho 3 đứa trẻ. Tôi bực và chán ghét cả mùa Giáng Sinh.
Khi về đến nhà, tôi đi ngay về phòng ngũ của mình để khóc cho đã. Tôi khóc lớn đủ để cho lũ trẻ nghe tiếng. Một cách ích kỹ,tôi muốn chúng biết là tôi khổ đến chừng nào. Quần áo vẫn còn dơ, chúng tôi thật mệt mỏi, chưa chuẩn bị cho bữa ăn tối, và không có gì đảm bảo tương lai sẽ sáng sủa hơn.
Khi tôi cạn nước mắt, tôi nhìn vào tấm bảng gỗ hình Chúa Jesus treo trên tường. Tôi nhận được tấm bảng đó từ khi tôi còn bé và tôi mang theo tấm bảng này đến mỗi căn nhà mà tôi dọn đến. Tấm bảng vẽ hình Chúa Jesus giang tay ra trên qủa địa cầu, rõ ràng là Ngài giải quyết biết những nan đề của thế giới.
Tôi nhìn chăm chăm vào ảnh Chúa Jesus, trông đợi một phép lạ. Cuối cùng tôi nói:”Lạy Chúa, Ngài có thể làm điều gì để cho cuộc đời con khá hơn được không?” Tôi thật mong muốn có một thiên sứ ngự xuống từ một đám mây và giải cứu tôi.
Nhưng không có ai đến cả, chỉ có Julia thò đầu vào phòng tôi và nói với giọng nói ngây thơ của một đứa trẻ 4 tuổi là nó đã bày bản xongg cho bữa ăn tối.Tôi có thể nghe tiếng của đứa con 6 tuổi, Jeanne, ở trong phòng khách đang soạn quần áo thành 2 đống,” đồ thật bẩn, không bẩn, đồ thật bẩn, đồ không bẩn”.
Michael chạy vào phòng tôi và cho tôi tấm hình vẽ nó mới tô mầu.Vào lúc đó, tôi thật thấy thiên sứ,không phải chỉ một mà 3 thiên sứ, 3 thiên thần bé nhỏ lúc nào cũng lạc quan,và một lần nữa lại kéo tôi ra khỏi sự đau buồn để mà vào thế giới mà “mọi sự sẽ tốt đẹp hơn vào ngày mai, mẹ à”.
Giáng sinh năm đó thật là mầu nhiệm khi chúng tôi được bao phủ bởi tình yêu, dựa trên niềm vui có được từ việc làm những việc làm đơn giản chung với nhau.
Có một điều tôi biết chắc:”việc dạy dổ con cái đối với tôi không bao giờ là điều đáng sợ, hay gây khủng hoảng cho tôi như là vào cái đêm mà đống quần áo rơi ra khỏi cái xe kéo đỏ”. 3 thiên thần bé nhỏ đã khiến tinh thần tôi được vui vẻ vào ngày nay, 30 năm sau, chúng luôn luôn khiến lòng tôi tràn ngập sự hiện diện của Chúa.
Những Kỳ Quan Của Giáng Sinh
Mùa Giáng Sinh lại trở về với chúng ta. Quý vị làm gì để chuẩn bị cho Giáng Sinh? Có lẽ quý vị đã gởi thiệp chúc mừng Giáng Sinh, đang suy tính mua quà gì cho ai, mời ai đến dự tiệc Giáng Sinh. Sau nhiều năm dự lễ Giáng Sinh tại đất nước này, quý vị đã biết phần nào về câu chuyện Giáng Sinh và có lẽ cũng quen thuộc với những bài ca Giáng Sinh, nhưng quý vị có bao giờ nghe về Những Kỳ Quan của Giáng Sinh chưa? Năm 2002 trong một chương trình phát thanh Giáng Sinh, Mục sư Harold Sala nói về Mười Kỳ Quan của Giáng Sinh, chúng tôi xin chia xẻ lại mười kỳ quan đó trong Câu Chuyện Gia Đình hôm nay. Mục sư Sala nói: “Trong Kinh Thánh có hơn 365 danh hiệu và từ ngữ chỉ về Chúa Cứu Thế Giê-xu, nhưng không từ ngữ nào đẹp cho bằng từ ngữ mà nhà tiên tri Ê-sai đã dùng. Sách Tiên Tri Ê-sai 9:6 ghi về Chúa Cứu Thế Giê-xu như vầy: Ngài sẽ được gọi là Đấng Lạ Lùng (Đấng Kỳ diệu).” Nhìn vào cuộc đời của Chúa Cứu Thế và lời dạy của Ngài, mọi người phải công nhận Ngài thật là một Nhân Vật Kỳ Diệu. Cuộc đời Chúa Cứu Thế chúng ta thấy mười “kỳ quan” hay mười điều kỳ diệu sau đây.
1. Kỳ quan I của Giáng Sinh: Sự báo trước về những chi tiết liên quan đến sự ra đời của Chúa
Ngày nay bác sĩ có thể phỏng đoán ngày ra đời của một đứa bé nhưng cũng ít khi đúng. Chúa Giê-xu xuống trần hơn hai ngàn năm trước, và các chi tiết liên quan đến sự giáng sinh của Ngài được các nhà tiên tri thông báo nhiều thế kỷ trước ngày Chúa giáng sinh. Với Áp-ra-ham, ông tổ của người Do Thái, Đức Chúa Trời cho biết Chúa Cứu Thế sẽ đến từ một chủng tộc đặc biệt. Với Gia-cốp, là hậu tự của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời cho biết Chúa Cứu Thế sẽ sinh ra từ chi tộc Giu-đa. Với tiên tri Ê-sai, Thiên Chúa cho biết Đấng Cứu Thế sẽ đến từ một gia đình tên là Gie-sê. Sau đó, nhà tiên tri Mi-chê được Thiên Chúa cho biết nơi chốn Chúa Cứu Thế sẽ ra đời, đó là thành Bết-lê-hem, và với tiên tri Đa-ni-ên, Thiên Chúa cho biết thời điểm Đấng Cứu Thế ra đời. Tất cả mọi chi tiết liên quan đến sự ra đời của Chúa Cứu Thế đã xảy ra đúng như các nhà tiên tri đã báo trước. Đó là điều kỳ diệu đầu tiên về Chúa Cứu Thế.
2. Kỳ quan II của Giáng Sinh: Chúa Cứu Thế do một trinh nữ sinh ra
Nhà tiên tri Ê-sai trong thời Cựu Ước tuyên bố: “Chính Chúa sẽ ban một điềm cho các ngươi: Nầy, một gái đồng trinh sẽ chịu thai, sinh một Con Trai, và đặt tên là Em-ma-nu-ên.” (Ê-sai 7:14). “Em-ma-nu-ên” nghĩa là Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta. Hơn 700 năm sau, khi thiên sứ đến gặp trinh nữ Ma-ri, chúc mừng và cho biết nàng sẽ chịu thai và sinh hạ Chúa Giê-xu. Trinh nữ Ma-ri thưa: “Tôi chẳng hề nhận biết người nam nào, làm sao có được điều đó. Thiên sứ truyền rằng: Đức Thánh Linh sẽ đến trên ngươi, và quyền phép Đấng Rất Cao sẽ che phủ ngươi dưới bóng mình, nên Con Thánh sinh ra phải xưng là Con Đức Chúa Trời” (Lu-ca 1:34-35). Mục đích Chúa Giê-xu sinh ra làm người là để chịu chết cứu người, và Chúa phải là một người vô tội thì mới có thể chịu chết cho người tội lỗi. Sự kiện Chúa Giê-xu do một trinh nữ sinh ra đã đáp ứng điều đó.
3. Kỳ quan III của Giáng Sinh: Phẩm tính của Chúa Cứu Thế
Chúng ta được ơn cứu rỗi nhờ cái chết hy sinh của Chúa Giê-xu nhưng đời sống của Ngài là đời sống đầy dẫy những điều lạ lùng. Trong cả lịch sử nhân loại không một người nào có đời sống và bản tính cao đẹp như Chúa Giê-xu. Những người ganh ghét Ngài không tìm được một lầm lỗi hay khuyết điểm nào trong đời sống của Ngài. Phúc Âm Giăng có lần ghi lại lời Chúa thách thức những người dòm hành để bắt bẻ Ngài. Chúa nói: “Ai trong các ông có thể chứng minh rằng tôi có tội?” Và không một người nào tìm thấy Ngài có một lỗi lầm nào. Đời sống toàn hảo, với những mỹ đức công chính, thánh khiết, yêu thương, khiêm nhường của Chúa Cứu Thế là một kỳ quan khác mà mọi người đều nhìn thấy.
4. Kỳ quan IV của Giáng Sinh: Bản chất của Chúa Giê-xu
Chúa là Người hoàn toàn nhưng cũng là Đức Chúa Trời hoàn toàn. Có những lúc Chúa mệt mỏi, đói, khát như tất cả mọi người nhưng Ngài cũng là Đức Chúa Trời Toàn Năng. Trong thân xác con người có lúc Ngài bị đói nhưng là Đức Chúa Trời Toàn Năng, Ngài đã khiến năm cái bánh và hai con cá thêm nhiều lên để cho hơn năm ngàn người ăn. Trong thân xác con người có lúc Chúa mệt mỏi, nhưng là Thiên Chúa Toàn Năng, Ngài có thể nói: “Hỡi những ai đang mệt mỏi và nặng gánh ưu tư, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các con được yên nghỉ” (Ma-thi-ơ 11:28). Chúa Cứu Thế chính là ánh sáng thiên đàng cho trần gian tăm tối, là bánh thiên thượng cho những người đang nghèo đói trong tâm linh.
5. Kỳ quan V của Giáng Sinh: Những lời giáo huấn của Chúa Cứu Thế
Chúa giảng dạy với quyền năng thiên thượng. Khi Chúa phán dạy, dù nhỏ nhẹ nhưng có sức thu hút người nghe, khiến họ phải chú ý, phải thay đổi. Không ai có thể tìm thấy điều sai sót nào trong lời dạy của Ngài. Chúa phán dạy những lời đơn sơ, dễ hiểu cho mọi tầng lớp trong xã hội, nhưng lời dạy của Ngài có một sức mạnh vô biên. Từ xưa đến nay, không một nhà hiền triết hay bậc thầy nào tuyên bố những lời như Chúa Cứu Thế đã tuyên bố. Chúa nói: “Ta là bánh sự sống; ai đến cùng ta chẳng hề đói và ai tin ta chẳng hề khát” (Giăng 6:35). “Ai nghe lời ta mà tin Đấng đã sai ta thì được sự sống đời đời” (Giăng 5:24). “Ta là sự sáng của thế gian, người nào theo ta chẳng đi trong nơi tối tăm nhưng có ánh sáng của sự sống” (Giăng 8:12). Chúa là Người duy nhất tuyên bố: “Ta là đường đi, chân lý và sự sống, chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Đức Chúa Cha” (Giăng 14:6).
6. Kỳ quan VI của Giáng Sinh là những việc Chúa Cứu Thế làm
Trong thời gian ngắn ngủi sống trên trần gian, Chúa Giê-xu luôn luôn làm những việc thiện lành, những việc lạ lùng để mang lại an ủi, chữa lành, mang lại niềm vui cho mọi người. Chúa chữa lành người đau ốm, ban thị lực cho người mù, khiến người câm nói được, người què chỗi dậy và bước đi. Có lần Chúa chận một đám tang và gọi người chết sống lại; Chúa đứng trước cửa mộ và gọi người chết bước ra khỏi mộ. Chúa không cần chẩn bệnh, cũng không cần phải xét nghiệm, Ngài chỉ phán một lời là người bệnh được chữa lành.
7. Kỳ quan VII của Giáng Sinh: Cái chết của Chúa Cứu Thế
Mọi người sinh ra trên đời là để sống nhưng Chúa Cứu Thế sinh ra để chết. Mục đích của cuộc đời Ngài là chết thay cho nhân loại. Khi giảng dạy, nhiều lần Chúa nói về mục đích và cái chết của cuộc đời Ngài. Chúa nói: “Ta là Người Chăn Lành, vì chiên phó sự sống mình” (Giăng 10:11). Không ai biết mình sẽ chết như thế nào, nhưng Chúa Giê-xu biết Ngài sẽ chết cách nào và tại sao Ngài phải chết. Biết mình sẽ bị treo trên thập giá, Chúa nói: “Còn ta, khi ta đã được treo lên khỏi đất, ta sẽ kéo mọi người đến cùng ta” (Giăng 12:32).
8. Kỳ quan VIII của Giáng Sinh: Sự sống lại của Chúa Cứu Thế
Sau khi Chúa bị đóng đinh trên cây thập tự người ta chôn Ngài trong một ngôi mộ đá. Kinh thánh ghi: “Phi-lát ra lệnh cho quân lính: Các ngươi có lính canh, hãy đi canh giữ theo ý các ngươi. Quân lính đi, niêm phong mộ Ngài lại, cắt lính canh giữ lấy làm chắc chắn lắm” (Ma-thi-ơ 27:65, 66). Dù người ta dùng tảng đá lớn niêm phong mộ Chúa, đến ngày thứ ba, Ngài đã sống lại cách vinh quang, để lại ngôi mộ trống là bằng chứng rõ ràng cho thấy Ngài chính là Thiên Chúa Toàn Năng đã chịu chết để cứu người và cũng đã sống lại vinh quang.
9. Kỳ quan IX của Giáng Sinh: Sự tái lâm của Chúa Cứu Thế
Khi Chúa Giê-xu thăng thiên, ngự về trời, thiên sứ tuyên bố: “Chúa Giê-xu này, đã được cất lên khỏi giữa các ngươi, cũng sẽ trở lại như cách các ngươi đã thấy Ngài lên trời vậy” (Công vụ 1:11). Chúng ta đang sống trong thời đại gọi là thời cuối cùng, là thời điểm Chúa Cứu Thế sắp trở lại. Thánh Phao-lô cho biết, trước ngày Chúa Cứu Thế trở lại trần gian, “sẽ có những thời kỳ khó khăn, vì người ta đều tư kỷ, tham tiền, khoe khoang, xấc xược, nghịch cha mẹ, bội bạc, không tin kính, vô tình, khó hòa thuận, hay phao vu, không tự chế, dữ tợn, thù người lành… Yêu thích vui chơi hơn là yêu kính Đức Chúa Trời” (II Ti-mô-thê 3:1-40. Đây là những điều đang xảy ra khắp nơi trên thế giới, cho chúng ta thấy Ngày Chúa Giê-xu trở lại đã gần.
10. Kỳ quan X của Giáng Sinh: Quyền năng cứu rỗi nhân loại
Trước khi Chúa Giê-xu giáng sinh, thiên sứ phán truyền Giô-sép rằng Trinh nữ Ma-ri sẽ sinh một Con Trai, và ông phải đặt tên là Giê-xu, vì Người Con ấy sẽ cứu dân mình ra khỏi tội. Trong đêm Chúa giáng sinh, thiên thần cũng báo tin cho các mục đồng: “Đừng sợ, vì ta báo cho các anh một tin lành, sẽ là niềm vui lớn cho muôn dân. Ấy là hôm nay, tại thành Đa-vít đã sinh cho cho các anh một Đấng Cứu Thế.” Đây là kỳ quan lớn nhất trong 10 kỳ quan của Giáng Sinh: Qua tình yêu và sự hy sinh lớn lao của Chúa Cứu Thế, con người được tha tội và được hưởng sự sống đời đời. Quý vị đã nhiều lần mừng lễ Giáng Sinh nhưng quý vị đã tiếp nhận “Kỳ Quan của Giáng Sinh” chưa?
Minh NguyênChương Trình Phát Thanh Tin Lành
1. Kỳ quan I của Giáng Sinh: Sự báo trước về những chi tiết liên quan đến sự ra đời của Chúa
Ngày nay bác sĩ có thể phỏng đoán ngày ra đời của một đứa bé nhưng cũng ít khi đúng. Chúa Giê-xu xuống trần hơn hai ngàn năm trước, và các chi tiết liên quan đến sự giáng sinh của Ngài được các nhà tiên tri thông báo nhiều thế kỷ trước ngày Chúa giáng sinh. Với Áp-ra-ham, ông tổ của người Do Thái, Đức Chúa Trời cho biết Chúa Cứu Thế sẽ đến từ một chủng tộc đặc biệt. Với Gia-cốp, là hậu tự của Áp-ra-ham, Đức Chúa Trời cho biết Chúa Cứu Thế sẽ sinh ra từ chi tộc Giu-đa. Với tiên tri Ê-sai, Thiên Chúa cho biết Đấng Cứu Thế sẽ đến từ một gia đình tên là Gie-sê. Sau đó, nhà tiên tri Mi-chê được Thiên Chúa cho biết nơi chốn Chúa Cứu Thế sẽ ra đời, đó là thành Bết-lê-hem, và với tiên tri Đa-ni-ên, Thiên Chúa cho biết thời điểm Đấng Cứu Thế ra đời. Tất cả mọi chi tiết liên quan đến sự ra đời của Chúa Cứu Thế đã xảy ra đúng như các nhà tiên tri đã báo trước. Đó là điều kỳ diệu đầu tiên về Chúa Cứu Thế.
2. Kỳ quan II của Giáng Sinh: Chúa Cứu Thế do một trinh nữ sinh ra
Nhà tiên tri Ê-sai trong thời Cựu Ước tuyên bố: “Chính Chúa sẽ ban một điềm cho các ngươi: Nầy, một gái đồng trinh sẽ chịu thai, sinh một Con Trai, và đặt tên là Em-ma-nu-ên.” (Ê-sai 7:14). “Em-ma-nu-ên” nghĩa là Đức Chúa Trời ở cùng chúng ta. Hơn 700 năm sau, khi thiên sứ đến gặp trinh nữ Ma-ri, chúc mừng và cho biết nàng sẽ chịu thai và sinh hạ Chúa Giê-xu. Trinh nữ Ma-ri thưa: “Tôi chẳng hề nhận biết người nam nào, làm sao có được điều đó. Thiên sứ truyền rằng: Đức Thánh Linh sẽ đến trên ngươi, và quyền phép Đấng Rất Cao sẽ che phủ ngươi dưới bóng mình, nên Con Thánh sinh ra phải xưng là Con Đức Chúa Trời” (Lu-ca 1:34-35). Mục đích Chúa Giê-xu sinh ra làm người là để chịu chết cứu người, và Chúa phải là một người vô tội thì mới có thể chịu chết cho người tội lỗi. Sự kiện Chúa Giê-xu do một trinh nữ sinh ra đã đáp ứng điều đó.
3. Kỳ quan III của Giáng Sinh: Phẩm tính của Chúa Cứu Thế
Chúng ta được ơn cứu rỗi nhờ cái chết hy sinh của Chúa Giê-xu nhưng đời sống của Ngài là đời sống đầy dẫy những điều lạ lùng. Trong cả lịch sử nhân loại không một người nào có đời sống và bản tính cao đẹp như Chúa Giê-xu. Những người ganh ghét Ngài không tìm được một lầm lỗi hay khuyết điểm nào trong đời sống của Ngài. Phúc Âm Giăng có lần ghi lại lời Chúa thách thức những người dòm hành để bắt bẻ Ngài. Chúa nói: “Ai trong các ông có thể chứng minh rằng tôi có tội?” Và không một người nào tìm thấy Ngài có một lỗi lầm nào. Đời sống toàn hảo, với những mỹ đức công chính, thánh khiết, yêu thương, khiêm nhường của Chúa Cứu Thế là một kỳ quan khác mà mọi người đều nhìn thấy.
4. Kỳ quan IV của Giáng Sinh: Bản chất của Chúa Giê-xu
Chúa là Người hoàn toàn nhưng cũng là Đức Chúa Trời hoàn toàn. Có những lúc Chúa mệt mỏi, đói, khát như tất cả mọi người nhưng Ngài cũng là Đức Chúa Trời Toàn Năng. Trong thân xác con người có lúc Ngài bị đói nhưng là Đức Chúa Trời Toàn Năng, Ngài đã khiến năm cái bánh và hai con cá thêm nhiều lên để cho hơn năm ngàn người ăn. Trong thân xác con người có lúc Chúa mệt mỏi, nhưng là Thiên Chúa Toàn Năng, Ngài có thể nói: “Hỡi những ai đang mệt mỏi và nặng gánh ưu tư, hãy đến cùng ta, ta sẽ cho các con được yên nghỉ” (Ma-thi-ơ 11:28). Chúa Cứu Thế chính là ánh sáng thiên đàng cho trần gian tăm tối, là bánh thiên thượng cho những người đang nghèo đói trong tâm linh.
5. Kỳ quan V của Giáng Sinh: Những lời giáo huấn của Chúa Cứu Thế
Chúa giảng dạy với quyền năng thiên thượng. Khi Chúa phán dạy, dù nhỏ nhẹ nhưng có sức thu hút người nghe, khiến họ phải chú ý, phải thay đổi. Không ai có thể tìm thấy điều sai sót nào trong lời dạy của Ngài. Chúa phán dạy những lời đơn sơ, dễ hiểu cho mọi tầng lớp trong xã hội, nhưng lời dạy của Ngài có một sức mạnh vô biên. Từ xưa đến nay, không một nhà hiền triết hay bậc thầy nào tuyên bố những lời như Chúa Cứu Thế đã tuyên bố. Chúa nói: “Ta là bánh sự sống; ai đến cùng ta chẳng hề đói và ai tin ta chẳng hề khát” (Giăng 6:35). “Ai nghe lời ta mà tin Đấng đã sai ta thì được sự sống đời đời” (Giăng 5:24). “Ta là sự sáng của thế gian, người nào theo ta chẳng đi trong nơi tối tăm nhưng có ánh sáng của sự sống” (Giăng 8:12). Chúa là Người duy nhất tuyên bố: “Ta là đường đi, chân lý và sự sống, chẳng bởi ta thì không ai được đến cùng Đức Chúa Cha” (Giăng 14:6).
6. Kỳ quan VI của Giáng Sinh là những việc Chúa Cứu Thế làm
Trong thời gian ngắn ngủi sống trên trần gian, Chúa Giê-xu luôn luôn làm những việc thiện lành, những việc lạ lùng để mang lại an ủi, chữa lành, mang lại niềm vui cho mọi người. Chúa chữa lành người đau ốm, ban thị lực cho người mù, khiến người câm nói được, người què chỗi dậy và bước đi. Có lần Chúa chận một đám tang và gọi người chết sống lại; Chúa đứng trước cửa mộ và gọi người chết bước ra khỏi mộ. Chúa không cần chẩn bệnh, cũng không cần phải xét nghiệm, Ngài chỉ phán một lời là người bệnh được chữa lành.
7. Kỳ quan VII của Giáng Sinh: Cái chết của Chúa Cứu Thế
Mọi người sinh ra trên đời là để sống nhưng Chúa Cứu Thế sinh ra để chết. Mục đích của cuộc đời Ngài là chết thay cho nhân loại. Khi giảng dạy, nhiều lần Chúa nói về mục đích và cái chết của cuộc đời Ngài. Chúa nói: “Ta là Người Chăn Lành, vì chiên phó sự sống mình” (Giăng 10:11). Không ai biết mình sẽ chết như thế nào, nhưng Chúa Giê-xu biết Ngài sẽ chết cách nào và tại sao Ngài phải chết. Biết mình sẽ bị treo trên thập giá, Chúa nói: “Còn ta, khi ta đã được treo lên khỏi đất, ta sẽ kéo mọi người đến cùng ta” (Giăng 12:32).
8. Kỳ quan VIII của Giáng Sinh: Sự sống lại của Chúa Cứu Thế
Sau khi Chúa bị đóng đinh trên cây thập tự người ta chôn Ngài trong một ngôi mộ đá. Kinh thánh ghi: “Phi-lát ra lệnh cho quân lính: Các ngươi có lính canh, hãy đi canh giữ theo ý các ngươi. Quân lính đi, niêm phong mộ Ngài lại, cắt lính canh giữ lấy làm chắc chắn lắm” (Ma-thi-ơ 27:65, 66). Dù người ta dùng tảng đá lớn niêm phong mộ Chúa, đến ngày thứ ba, Ngài đã sống lại cách vinh quang, để lại ngôi mộ trống là bằng chứng rõ ràng cho thấy Ngài chính là Thiên Chúa Toàn Năng đã chịu chết để cứu người và cũng đã sống lại vinh quang.
9. Kỳ quan IX của Giáng Sinh: Sự tái lâm của Chúa Cứu Thế
Khi Chúa Giê-xu thăng thiên, ngự về trời, thiên sứ tuyên bố: “Chúa Giê-xu này, đã được cất lên khỏi giữa các ngươi, cũng sẽ trở lại như cách các ngươi đã thấy Ngài lên trời vậy” (Công vụ 1:11). Chúng ta đang sống trong thời đại gọi là thời cuối cùng, là thời điểm Chúa Cứu Thế sắp trở lại. Thánh Phao-lô cho biết, trước ngày Chúa Cứu Thế trở lại trần gian, “sẽ có những thời kỳ khó khăn, vì người ta đều tư kỷ, tham tiền, khoe khoang, xấc xược, nghịch cha mẹ, bội bạc, không tin kính, vô tình, khó hòa thuận, hay phao vu, không tự chế, dữ tợn, thù người lành… Yêu thích vui chơi hơn là yêu kính Đức Chúa Trời” (II Ti-mô-thê 3:1-40. Đây là những điều đang xảy ra khắp nơi trên thế giới, cho chúng ta thấy Ngày Chúa Giê-xu trở lại đã gần.
10. Kỳ quan X của Giáng Sinh: Quyền năng cứu rỗi nhân loại
Trước khi Chúa Giê-xu giáng sinh, thiên sứ phán truyền Giô-sép rằng Trinh nữ Ma-ri sẽ sinh một Con Trai, và ông phải đặt tên là Giê-xu, vì Người Con ấy sẽ cứu dân mình ra khỏi tội. Trong đêm Chúa giáng sinh, thiên thần cũng báo tin cho các mục đồng: “Đừng sợ, vì ta báo cho các anh một tin lành, sẽ là niềm vui lớn cho muôn dân. Ấy là hôm nay, tại thành Đa-vít đã sinh cho cho các anh một Đấng Cứu Thế.” Đây là kỳ quan lớn nhất trong 10 kỳ quan của Giáng Sinh: Qua tình yêu và sự hy sinh lớn lao của Chúa Cứu Thế, con người được tha tội và được hưởng sự sống đời đời. Quý vị đã nhiều lần mừng lễ Giáng Sinh nhưng quý vị đã tiếp nhận “Kỳ Quan của Giáng Sinh” chưa?
Minh NguyênChương Trình Phát Thanh Tin Lành
Subscribe to:
Posts (Atom)